Tin Mừng Luca 6, 12-16: Trong những ngày ấy, Đức Giê đi ra núi cầu nguyện, và Người thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đó là ông Si môn mà Người gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là các ông Giacôbê, Gioan, Philipphê, Batôlômêô, MátThêu, Tôma, Giacôbê con ông Anrê, Simôn biệt danh là Quá khích, Giuda con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, người đã trở thành kẻ phản bội.
1. Đường lối huấn luyện các môn đệ của Chúa Giê su
Khi đến trần gian Chúa Giê su đã chọn con đường khiêm hạ – tự hủy. Sống
nghèo khó là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để đi vào trần gian cũng như từ giã trần gian mà về cùng Chúa Cha. Lời giảng và gương sống của Chúa Giê su cho thấy giá trị của sự nghèo khó trong Tin Mừng.
“Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).
Chính Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai Tông Đồ để sau này các ông chia sẽ sứ vụ cứu độ của Chúa và từng bước dạy dỗ các ông đi trong đường lối của Người. Chúa mời gọi các Tông đồ cũng sống như Người đã sống. Chúa Giê su đã quan tâm dạy dỗ cho các ông, đã có những lần Chúa tách các ông khỏi đám đông để họ được dạy bảo riêng (x. Mc 4, 10-12) để dần dần các ông nhận biết Mầu Nhiệm Nước Trời đã được ban cho các ông, nhất là nhận biết Người là ai? “Người là Đấng Chúa Cha sai đến và các ông được mời gọi tiếp tục thực hiện sứ mạng cứu độ của Người”. Bởi vì các ông sẽ phải tiếp tục sứ mệnh của Chúa và các ông sẽ loan báo Tin Mừng, loan báo điều chính mình thấy và nghe. Bước đầu Nhóm Mười Hai không làm gì hơn là ở lại với Chúa Giê su ( Mc 3,13-14) Điều này tuyệt đối cần thiết, để nhận biết và noi theo lối sống của Thầy mình. “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 6- 7). Sống kiếp phàm nhân Ngài đã trở nên người nghèo khó. Ngài đã chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo khó; chấp nhận sống trong một gia đình nghèo; Ngài còn trút bỏ chính mình, chấp nhận chết trên cây thập giá trong tình trạng thống khổ, đau đớn và hèn mạt. Khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên, “Hãy theo Ta…” Chúa Giê su chỉ mời gọi họ bước theo mình, chứ không nói gì đến sự khó nghèo. Nhưng sau này, Chúa Giê su đòi buộc những ai muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ mọi sự hướng đến một sự thanh thoát tuyệt đối, không dính bén của cải tiền tài danh vọng mà toàn tâm toàn ý tìm kiếm Nước Trời. “ …hãy đi bán hết tài sản của anh và cho người nghèo… rồi hãy theo tôi”; Lại nữa khi Chúa nói về chuyện “ con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời” ( Mc 10,25) chính là muốn cảnh cáo các môn đệ đừng để danh vọng bạc tiền níu giữ con tim làm cản lối trên hành trình truyền giáo. Lý do từ bỏ không phải vì tài sản, của cải xấu xa, nhưng vì muốn nói lên bậc thang giá trị mới. Chúa muốn các môn đệ tự nguyện từ bỏ mọi sự để gắn bó cùng Chúa hơn và xem đó như điều kiện để nên giống Thầy Giê su, Đấng không có chỗ tựa đầu (Lc 9,57-58) cách hoàn hảo hơn và rồi để có thể thực hiện được sứ mệnh cao cả “….đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” ( Mc 16, 15).
Vì lòng gắn bó với chương trình cứu độ của Chúa Cha, Chúa Giê su đã có thái độ siêu thoát với của cải trần thế: thánh Phaolô Tông đồ đã viết: “người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy các nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8, 9). Chúa còn kêu gọi mọi người, kể cả các môn đệ thân tín, phải đạt tới nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó “phúc thay ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3) sự nghèo khó ở đây không có nghĩa là đói rách về phần xác mà là không ham mê tiền bạc và của cải vật chất tiện nghi xa hoa.v..v.Chúa cũng ngăn đe các môn đệ hãy xa tránh và chống lại những cám dỗ về tiền bạc, địa vị. Nếu không, họ cũng giống như bọn Biệt Phái và Luật Sĩ không sống điều họ dạy bảo người khác.Chiều sâu của sự nghèo khó của Chúa Giê su được tỏ bày trong việc Người dâng trọn vẹn cho Chúa Cha tất cả những gì thuộc về Người. Vì thế, sự khó nghèo của Chúa Giê su không chỉ là sự tự hủy mà đồng thời là sự tự trao ban vì tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại. Khi Chúa Giê su loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh. Người đã chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận thảm kịch khổ nạn- Đỉnh cao của tình yêu dâng hiến ở đây. Người soi sáng cho họ hiểu ý nghĩa của cuộc vượt qua của Người và báo trước việc họ sẽ bỏ Người vì sợ hải, Chúa cũng cảnh giác họ phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.
Mặc dù Nhóm Hai được sống cận kề với Chúa Giêsu được dạy bảo kỹ lưỡng nhưng não trạng và cách sống của các ông đôi khi, xem ra đi ngược chiều với những cố gắng của Thầy mình. Thuở ban đầu theo Chúa, Phêrô nhanh chóng dứt bỏ mọi sự theo Chúa, nhưng sau này ông đã có lần tính toán hơn thiệt với Chúa: “ Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”; còn ông Giacôbê và Gioan thèm muốn địa vị quyền hành : tìm cách “xí” ghế bên tả ghế bên hữu Thầy; Tệ hơn nữa trong số Mười Hai môn đệ ấy có ông GiuĐa Ítcariốt người đã trở thành kẻ phản bội , là chính kẻ đi gặp Thượng Tế để mưu nộp Thầy mình. Giu đa đã bán Thầy với 30 đồng bạc!
2. Sự bội phản của Giuđa:
Trở lại đọan tin mừng tường thuật việc Chúa Giêsu chọn 12 tông đồ: ta hãy xem những chi tiết: Đức Giesu đi ra núi cầu nguyện, và Người thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Rồi Người gọi các môn đệ lại, và chọn 12 ông và Chúa gọi các ông này là Tông Đồ được kể rõ tên từng người một, trong đó có ông GiuDa Ít ca ri ốt, và thánh sử Luca ghi thêm người đã trở thành kẻ phản bội .
Chính Chúa tuyển chọn Nhóm Mười Hai, gọi các ông là tông đồ và ban cho các ông năng quyền, sai các ông đi thi hành sứ vụ.
Giuđa chẳng lọt vào Top 3 môn đệ sáng giá là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chiêm ngưỡng vinh quang của Thầy Giêsu trên núi Tabor, Trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, lúc cần các tông đồ phụ giúp, thì ông Giuda đã chẳng nhiệt tình như các ông Philipphê, Anrê và Phêrô trong câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng đã đói lả vì rong ruổi theo Chúa.
Điều hay việc tốt, không thấy nhắc tên ông, ngược lại trong câu chuyện xức dầu ở Bêtania khi thấy cô Maria lấy dầu thơm nguyên chất quý giá mà xức chân Chúa Giêsu: ông nói “sao không bán dầu thơm đó lấy 3 trăm quan tiền mà cho người nghèo? Phát biểu được 1 câu nghe có vẻ đạo đức, thế nhưng thánh Gioan tông đồ đã ghi lại rằng: “Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung”.
Giu đa là tông đồ trong Nhóm Mười Hai: được Chúa tuyển chọn, dạy dỗ yêu thương bằng những lời giáo huấn của Chúa rất kỹ : về việc cầu nguyện, ăn chay, bố thí…các con đừng làm như bọn đạo đức giả; về việc sử dụng tiền của : không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của; về việc cương quyết đoạt tuyệt với tội lỗi : thà móc mắt, chặt tay chặt chân quẳng nó đi, nếu chúng phạm tội , còn hơn là toàn thân phải quăng vào nơi tối tăm; và Chúa cũng đã nói môn đệ chân chính không phải là những ai thưa với Thầy : Lạy Chuá ! Lạy Chúa ! mà là những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy . lẽ nào GiuĐa lại quên!
Giuđa đã trở thành kẻ phản bội từ lúc nào không biết? Chỉ biết rằng khi Chúa Giêsu và Các Tông Đồ đang dùng bữa Tiệc mừng lễ Vượt Qua, thì chính Chúa đã hé một câu: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy” (Mc 14, 17)
“…Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy” nghe đến đây
thì các môn đệ lần lượt hỏi : Thưa Thầy chẳng lẽ con sao? Và Giuđa cũng hỏi Chúa “Rap bi, chẳng lẽ con sao? Chúa liền trả lời chính anh nói đó! Mười một Tông đồ khác thì không hiểu tại sao Người lại nói với ông Giuđa như thế? Chỉ mình Giuđa mới rõ, Chúa biết mưu đồ của ông. Nhưng Giuđa không lay động… Và Tin Mừng ghi lại: sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền quay gót ra khỏi bàn Tiệc Ly. Thánh Gioan ghi nhận rằng: lúc đó trời đã tối! Thật ra Giuđa đã bước đi trong bóng tối từ lâu. Giuđa đi theo Thầy Giê su, lẽ ra ông phải chọn bước đi trong Ánh sáng, vì Chúa Giêsu là Đường là Sự Thật và là Ánh Sáng đến trong thế gian, .Trái lại ông đã say mê của cải thế gian và đã đánh mất Chúa. Ông đã chuộng bóng tối hơn Ánh Sáng, .Tại sao vậy? Bởi vì ông không muốn bỏ các việc làm xấu xa, mờ ám của mình, vẫn bước theo Chúa, nhưng ông có những kế hoạch riêng của mình. Suốt mấy năm trời theo Chúa nhưng Giuđa lại gắn bó với ông chủ Tiền của, để rồi quay gót ra đi và đánh đổi tình Thầy với giá 30 đồng bạc! (nghe nhạc Cơn cám dỗ- Khắc Dũng).
Đó là một thoáng nhìn về góc khuất của Giuda. Còn góc khuất trong tôi?
3. Góc khuất trong tôi:
Theo hình ảnh Đức Giê Su, Con yêu dấu “mà Chúa Cha đã thánh hiến và sai
đến thế gian” (Ga 10, 36), những người Thiên Chúa gọi theo Người, cũng được thánh hiến và sai đến thế gian để bắt chước Người tiếp tục sứ mạng của Người. Điều này được áp dụng cho mọi môn đệ nói chung. Kế đến, nó áp dụng cách riêng cho những ai được mời gọi theo Chúa Ki tô “sát hơn”trong hình thức đặc thù là đời thánh hiến và lấy Người làm “tất cả” của đời mình.
Luật Dòng chị em Mân Côi đã hướng dẫn về việc thực hành đức nghèo khó: khi tự nguyện chấp nhận một cuộc sống của người nghèo, chọn Chúa làm gia nghiệp, và chỉ sử dụng của cải như phương tiện thực thi sứ mạng tông đồ. Chọn sống nghèo, chị em được giải thoát khỏi những lo lắng và ràng buộc, dính bén vào của cải, sống phó thác cho Cha trên trời với tâm hồn siêu thoát và tự do nội tâm, để mở rộng lòng đối với Thiên Chúa và tha nhân trong tinh thần đức ái hoàn hảo của chị em (HL 9.1, 2)
Đức Thánh Cha Phan xi cô trong Tông Huấn niềm Vui Tin Mừng số 79 đã cảnh giác nhiều người, bao gồm cả các tu sĩ, về tính thế tục, mà tính thế tục thiêng liêng nó núp dưới dáng vẻ lòng đạo đức và yêu Hội Thánh, thực ra là tìm kiếm danh vọng và lợi ích cá nhân thay vì tìm vinh quang Chúa mà tìm vinh quang loài người, tìm sự thỏa mãn của bản thân; tính thế tục ẩn nấp bên dưới những hào nhoáng của lợi lộc xã hội; sự say mê tự thể hiện mình; muốn kéo sự để ý về mình; không hề có dấu ấn của Đức Ki tô nhập thể, hy sinh. Nhiệt huyết tin mừng bị thay thế bằng sự hưởng thụ trống rỗng của tính tự mãn và buông thả. Tâm hồn họ chỉ mở ra với chân trời hạn hẹp của tính tự tại, tư lợi. Đây là một sa đọa ngụy trang dưới lớp vỏ đạo đức của điều thiện. Tu sĩ cần phải tránh bằng cách luôn luôn ra khỏi chính mình, qui hướng con người và mọi công việc của mình vào Đức Ki tô. Bởi vì “không say mê Đức Giêsu sẽ không có tương lai cho đời sống thánh hiến”. (x. Sức mạnh của ơn gọi)
Như các môn đệ xưa, khi bước theo Chúa trên con đường thánh hiến, là tu sĩ, tôi cũng là môn đệ chính danh.
Giây phút này ta phải nhìn sâu vào chính mình, suy gẫm về ơn gọi sống đời thánh hiến Chúa ban, hãy xem lại mối tương quan giữa tôi với Chúa hiện nay như thế nào? Tôi có còn yêu mến Chúa như tình yêu thuở ban đầu hay không? .Xin đừng có lối sống “hữu danh vô thực. Chiếc áo dòng không làm nên người ệ chính danh. tu. Xin đừng xem thường những vấp váp nho nhỏ và rồi có thể dẫn đến những lỗi nặng, đến sự phản bội…. hãy tập thường xuyên ý thức mình là người đã được thánh hiến, người của Chúa, được Chúa ban những ân huệ nhưng không. Hãy chuyên chăm đào sâu căn tính nữ tu của mình. Đức Cha Tổ Phụ đã phác họa căn tính của nữ tu Mân Côi một cách đặc thù. Đó là một tâm hồn luôn ở trong mối tương quan sống động với Thiên Chúa ở bề trong. Một tương quan bạn hữu sâu xa, huyền nhiệm mà nếu hiểu được, chị nữ tu Mân Côi sẽ không bao giờ đánh đổi cho dù để lấy cả thế gian “. Khi đã có một tình yêu Chúa thắm thiết chúng ta sẽ không đi tìm sự gì nữa: không còn khao khát một sự gì riêng tư- vật chất hay một người nào đó. (thinh lặng 1 phút)
“Hãy bước đi trước mặt ta và hãy sống hoàn hảo”. Chúng ta cần phải bước đi trước mặt Chúa, trong cuộc sống cần cảm nhận rằng mình đang bước trên con đường theo Thánh ý Chúa- Hãy trung tín với kỷ luật đời sống thánh hiến. Hãy tập sống trước sự hiện diện của Chúa. Vì bằng cách đó, chúng ta ngăn ngừa tâm trí suốt ngày lang thang để giữ nó lại gần bên Chúa, ngăn ngừa bước chân chúng ta đi sai đường lạc hướng, rời xa kỷ luật, lời khấn và nhất là rời xa chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện kết thúc:
Lạy Chúa đã yêu chúng con bằng một tình yêu nhưng không, Chúa đã chọn gọi chúng con bước theo Chúa trong ơn gọi đời sống thánh hiến. Chúng con cảm tạ Chúa về hồng ân này, cảm tạ Chúa về biết bao ơn lành Chúa thương ban để gìn giữ, dẫn dắt chúng con cho đến ngày hôm nay. Nhìn lại những năm tháng qua, chúng ta cũng nhận thấy mình còn nhiều thiếu sót, yếu đuối, bất toàn. Nhưng Chúa vẫn yêu chúng con Chúa bất chấp tội lỗi và sự yếu hèn của chúng con, Chúa đã từng ngày chờ đợi chúng con quay về để đón nhận tình yêu của Chúa. Lạy Chúa, trước tình yêu cao cả của Chúa, chúng con càng nhận thấy mình thật bất xứng, vô ơn. Chúng con xin lỗi Chúa. Vì quả thực, chúng con chưa yêu mến Chúa cho đủ. Xin Chúa tha thứ tất cả, cho chúng con. Xin Chúa hoán cải tâm hồn chúng con để chúng con biết yêu Chúa bằng một tình yêu trọn vẹn không bớt xén, bằng một tình yêu chân thực không giả dối. Xin cho ơn hoán cải và canh tân để sống trung thành với ơn gọi thánh hiến.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Ánh Sáng xin chiếu rọi Ánh Sáng của Chúa vào góc khuất trong con, để con nhận biết con người thật của mình lúc này và để con can đảm vượt ra khỏi mảng tối trong con và bước đi theo con đường của Chúa. Lạy Chúa, xin giúp con bước đi trước mặt Chúa và sống thánh thiện trong mọi cách ăn nết ở của con. Amen.
Sr. Maria Thánh Tâm Tạ Minh Hằng